HFVN – Tạp chí The Absolute Sound (Mỹ) vừa có bài viết thú vị giới thiệu 4 nhà thiết kế chính của 4 thương hiệu loa Neat Acoustics, Gallo Acoutiscs, Dynaudio và Von Schweikert với những trao đổi xung quanh các dòng loa tiêu biểu và những nhận định về mặt công nghệ thiết kế loa hiện đại. Bài viết cho người đọc cái nhìn khái quát và triết lý thiết kế của các hãng loa khi phát triển những dòng loa nhỏ, với kích thước hạn chế, giá thành hợp lý nhưng chất lượng âm thanh vượt ra ngoài sức tưởng tượng của người chơi, nếu chỉ nhìn từ vóc dáng sản phẩm. Bên cạnh đó là những đánh giá trong sự thay đổi về mặt lượng và chất của những dòng loa thế hệ mới
BOB SURGEONER – NEAT ACOUSTICS
Bob Surgeoner đã tìm hiểu về âm nhạc và điện tử từ rất sớm, ông cũng bắt đầu sáng tác nhạc từ năm 1969 cho đến nay. Trong năm 1980, những lúc nhàn rỗi Bon kinh doanh các thiết bị âm thanh hifi tại nhà riêng ở London, đến năm 1989, ông chuyển lên miền Bắc và mở cửa hàng North Eastern Audio Traders (hay viết tắt là NEAT Hifi). Ngay trong thời gian này Bob đã phát triển loa Neat Petites, mẫu Petites đầu tiên chỉ được bán ngay tại shop và chỉ có một cặp được sản xuất lúc này. Năm 1991, Neat Petites được giới thiệu tại triển lãm London Heathrow và nhận được phản hồi tích cực về khả năng thương mại và phát triển. Điều này đã thúc đẩy Bob nghiên cứu đầu tư Neat ở mức độ sâu và nghiêm túc hơn.
Những tiêu chí âm thanh được phát triển trong mẫu loa Neat Iota?
Hầu hết các loa nhỏ thông thường có khả năng trình diễn với tốc độ rất nhanh và sống động để bù đắp cho sự thiếu hụt khả năng tái hiện về âm trường. Đối với Iota chúng tôi muốn cân bằng lại sự khiếm khuyết mang tính truyền thống này, Iota vẫn có khả năng tái hiện không gian không kém cạnh so với các mẫu loa lớn hơn của Neat mặc dù bị giới hạn về kích thước. Thêm vào đó, Iota sẽ là mẫu loa tương đối ít kén chọn thiết bị phối ghép.
Chúng tôi có xu hướng phát triển ngược, nghĩa là cho phép âm nhạc quyết định thiết kế của loa chứ không phải là ngược lại.
Những yếu tố kỹ thuật nào được sử dụng trong Iota? Iota có được thừa hưởng các công nghệ từ những dòng loa cao cấp trước đó không?
Iota được xem là một trong những mẫu thiết kế khác biệt của chúng tôi. Nó tạo ra nhiều thách thức khi so với các mẫu sản phẩm trước đó. Việc sử dụng tweeter EMIT với thiết kế ribbon được thừa hưởng từ dòng Ultimatum cao cấp, đóng vai trò như một driver super tweeter. Tôi luôn cảm thấy thích thú với chất lượng trình diễn tự nhiên và rất mộc của driver EMIT, tuy nhiên, nó chỉ có thể được cắt tần ở một điểm khá cao và tất nhiên là không lý tưởng khi ghép với loa mid/bass 6,5 inch. Chính vì thế để có một dải tần trọn vẹn và tuyến tính, chúng tôi chọn một của loa woofer có đường kính nhỏ hơn (có độ mở dải tần cao hơn) trong thiết kế loa Iota.
Quy trình của chúng tôi luôn lặp đi lặp lại, được đánh giá bằng các buổi nghe thẩm định rất cởi mở. Sự lựa chọn củ loa cho dải cao là một yếu tố hết sức quan trọng, bởi tôi tin chất lượng của tweeter tạo ra sự đặc sắc và hoàn thiện của hệ thống loa. Nhưng ngay cả những driver tweeter tốt nhất trên thế giới cũng sẽ không thể hiện hết khả năng của nó nếu không hòa hợp tốt với các driver còn lại, cũng như các nhân tố quan trọng khác gồm: phân tần, thùng loa, các vật liệu chống rung…, sự liên kết giữa các yếu tố trên quyết định sự thành bại của sản phẩm.
Paul Ryder là người cùng thiết kế với tôi và quản lý các sản phẩm, bên cạnh đó, ông ấy cũng là một kỹ sư thu âm tài năng. Tôi là nhạc sĩ và chúng tôi đã chơi nhạc sống rất nhiều, tôi thiết lập về âm học, cũng như thực hiện các bản thu âm tham chiếu ngay tại nhà máy của mình. Chính những điều này đã đưa ra tiêu chí thiết kế loa của chúng tôi. Chúng tôi có xu hướng phát triển ngược, nghĩa là cho phép âm nhạc quyết định thiết kế của loa chứ không phải là ngược lại.
Ông đã thiết kế các loa lớn hơn và nhiều khả năng hơn so với Iota. Vậy những thách thức và khó khăn trong việc thiết kế một loa nhỏ hơn?
Đương nhiên chúng tôi có nhiều mẫu loa lớn hơn, nhưng ở một khía cạnh nào đó Iota là một mẫu thiết kế nhiều tham vọng hơn bất kỳ mẫu loa nào khác trong một kích thước khiêm tốn. Do hạn chế về kích thước nên thiết kế ban đầu của Iota có thùng loa rất cao. Tôi đã đắn đo trong việc mở rộng dải trầm hoặc loại bỏ nó, thách thức chính là làm sao cân bằng được việc này. Các loa Iota đã lợi dụng việc cộng hưởng của các âm bội để làm tô đậm thêm cho dải trầm mặc dù loa không phát ra dải trầm sâu. Tuy nhiên đây cũng không phải là một yếu tố chính trong thiết kế loa Iota, mà chính sự cân bằng trong hiệu chỉnh âm thanh mới được xem là tiêu chí hàng đầu trong quá trình phát triển sản phẩm. Hơn nữa, Iota phải thân thiện trong việc set-up vị trí trong phòng nghe, điều này cũng là một yếu tố cần phải cân nhắc vì nó ảnh hưởng tới chất lượng âm thanh của loa.
Các nhóm loa ứng với từng phân khúc giá trong suốt mười năm qua có những sự thay đổi gì, và ông nghĩ sao về sự thay đổi đó ?
Tôi thấy có nhiều sự cải tiến về chất lượng ở tổng thể, các nhóm loa phát triển nhiều nhất là ở tầm giá thấp và trung bình. Có một số lý do cho sự phát triển này. Nhiều nhà sản xuất loa dường như nhận ra tầm quan trọng của chất lượng phân tần so với mười hay hai mươi năm trước đây. Các tụ điện áp cao polypropylene được sử dụng phổ biến hơn trong các phân tần các loa có mức giá vừa phải, cuộn cảm lõi khí được dùng thay thế cho lõi ferrite cũ. Công nghệ sản xuất củ loa cũng phát triển khá tốt, sự phát triển công nghệ cho phép gia tăng khả năng kiểm soát về chất lượng củ loa và quy trình sản xuất. Các máy móc dùng để kiểm tra sản phẩm có mức giá phù hợp hơn, do đó có thể dễ dàng đạt được các tiêu chuẩn kỹ thuật cao.
ANTHONY GALLO – GALLO ACOUSTICS
Anthony Gallo bắt đầu quan tâm đến âm thanh khi ông học chơi kèn vào năm lên 7. Sau đó, trong suốt quá trình chơi nhạc sống tại dàn nhạc của trường, ông nhận ra mình đam mê nghe nhạc sống hơn cả việc học chơi nhạc. Chính điều này đã dẫn dắt ông bước vào con đường tìm hiểu về việc tái tạo âm thanh. Năm 13 tuổi ông đã thiết kế cặp loa đầu tiên của mình và nhiều năm sau đó ông vẫn kiên trì nghiên cứu, nghe thử và thử nghiệm tất các loa từ phổ thông, cao cấp, cho đến hết sức quý hiếm có mặt trên thị trường. Năm 23 tuổi, Anthony làm tại Panasonic nơi ông đã có được cơ hội làm việc với các kỹ sư xuất sắc, những năm sau đó ông quay lại với niềm đam mê của mình, phát triển công nghệ độc quyền về loa twetter CDT (Cylindrical Diaphragm Transducer) và kết cấu thùng loa hình khối cầu. Năm 1994, Anthony Gallo Acoustics được thành lập.
Âm thanh của Gallo Strada 2 ra sao?
Chúng tôi thường xuyên nhận được những phản hồi tích cực từ khách hàng về khả năng tái tạo âm thanh ba chiếu sống động như thật của dòng loa Reference 3.5s. Những tố chất này là một phần trong sự phát triển của mẫu Strada 2. Tuy nhiên, Strada 2 được thiết kế với kích thước của một loa vệ tinh nhỏ gọn và rất linh hoạt, có thể ứng dụng ở nhiều tình huống khác nhau. Bạn có thể sử dụng loa này như một cặp loa cột, hay gắn trên tường cạnh ti vi cho hệ thống rạp hát gia đình, hoặc cũng có thể để trên bàn làm việc như loa máy tính cao cấp.
Những yếu tố kỹ thuật nào được ứng dụng trong dòng Strada 2? Có sự kế thừa của các dòng cao cấp hơn không thưa ông?
Strada 2 được sản xuất dựa trên thiết kế của Reference 3.5, chia sẻ phần “gien trội” của người anh trai lớn. Chúng tôi sử dụng nhiều thiết kế trong việc phát triển Strada 2, nhưng chủ yếu dựa trên ba công nghệ chính: CDT3 (phiên bản tweeter mới nhất của chúng tôi), công nghệ S2 độc quyền và thùng loa hình cầu với vật liệu hợp kim loại được thiết kế tối ưu hóa cho loa (các vật liệu đều tạo ra sự khác nhau về âm thanh và kim loại cũng không phải là một ngoại lệ)
Cấu tạo CDT tweeter chỉ gồm một lớp màng mỏng Kynar có khả năng giao động tạo ra âm thanh mà không cần sử dụng cuộn dây. Phần màng loa hình trụ cầu giao động lên xuống, giúp phân tán toàn bộ giải tần số cao. Các thùng loa phổ thông thường chèn bên trong các vật liệu hấp thụ âm thanh như Dacron hoặc sợi len để làm giảm nhiễu động bên trong. Công nghệ S2 của chúng tôi sử dụng loại vật liệu độc quyền có khả năng đáp ứng tốt hơn rất nhiều trong vấn đề hấp thụ và khuếch tán bên trong thùng loa, giúp giảm đáng kể các phản hồi xấu của âm thanh lên màng loa. Kết cấu kim loại hình cầu là một trong các cấu trúc cứng chắc và cộng hưởng lợi nhất mà chúng tôi đã thử nghiệm. Thiết kế này có đặc điểm hạn chế nhiễu xạ âm cực tốt, phân tán âm rộng.
Ông đã từng thiết kế những loa cao cấp và lớn hơn nhiều so với Strada 2. Vậy những thách thức và đánh đổi đối với một loa nhỏ hơn tại mức giá thấp hơn là gì?
Theo quan điểm của tôi, bất kể kích thước và mức giá của loa thế nào, thì các loa cần phải tránh được sự cộng hưởng thùng và củ loa. Đáp tuyến của loa cần phải bằng phẳng. Với những thiết kế loa nhỏ, giá thấp, bạn phải cân đo đong đếm rất kỹ trong việc chi tiêu cho vật liệu để có một mức giá tối ưu. Tuy nhiên, điều bạn phải giải quyết có vẻ rất ngược đời, đó là tạo được chất âm tốt hơn với mức đầu tư ít hơn, và chính những công nghệ của Gallo được xem là thành quả đáng tự hào của bản thân, trong đó đặc biệt là thiết kế loa dạng hình cầu.
Các nhóm loa tại từng mức giá trong suốt mười năm qua có những sự thay đổi gì, và ông nghĩ sao về sự thay đổi đó ?
Trong thập kỷ qua, tôi thấy có nhiều cải tiến đáng kể ở các dòng loa phổ thông ở mức giá tầm nhập môn. Tôi có tìm hiểu về thông tin các công nghệ mới, các tiến bộ mới trong vật liệu, các phương pháp chế tạo hiệu quả và địa điểm sản xuất. Có một số sản phẩm được đánh giá có hiệu năng rất tốt và được bán vức mức giá thấp là do sử dụng nguồn cung và sản xuất ở nước ngoài. Điều này cho phép các công ty có thể sản xuất các sản phẩm tốt hơn nhưng vẫn giữ mức chi phí vừa phải.
MARK THORUP – DYNAUDIO
Dynaudio được thành lập vào năm 1977 tại thành phố Skanderborg, Đan Mạch. Công ty hình thành từ nhóm kỹ sư đam mê âm nhạc và họ cũng nhận ra rằng, ngay cả những thiết kế loa được xem là tốt nhất vào thời điểm bấy giờ vẫn còn nhiều hạn chế trong việc tái tạo âm thanh trung thực, những vấn đề về pha thời gian, méo âm do thay đổi về pha truyền dẫn, nâng pha, rất ít biến dạng, tuyệt đối trong đồng pha, không thể chịu tải công suất lớn, độ động thấp… Chính vì thế họ đã thành lập Dynaudio để làm thay đổi những điểm yếu cố hữu này.
Dynaudio nhận thức ra rằng để có thể sản xuất loa thực sự tốt thì các củ loa cần được tối ưu hóa và hãng đã phát triển việc sản xuất củ loa cho riêng mình. Nhưng quá trình tạo ra một mẫu loa từ lúc bắt đầu đến kết thúc cần phải trải qua rất nhiều các bài kiểm tra kỹ thuật và so sánh âm thanh. Mark Thorup và Wilfried Ehrenhloz (người sáng lập Dynaudio) là những người dẫn dắt, chỉ đạo về chất lượng âm thanh cũng như thiết kế từ sản phẩm cao cấp Evidence Platinum đến mẫu loa Excite X34 bình dân.
Những tiêu chí âm thanh nào ông đã kỳ vọng đối với Excite 34?
Excite 34 có chất âm cao cấp của Dynaudio nhưng nhiều cải tiến hơn so với Excite thế hệ đầu tiên. Âm thanh sẽ cân bằng, năng động, âm hình sâu rộng là mục tiêu mà chúng tôi hướng đến. Bên cạnh đó loa cũng sẽ dễ kéo hơn để gia tăng khả năng tối ưu hóa với các bộ amply.
Những tính chất kỹ thuật nào được ứng dụng cho Excite 34 ? Excite 34 có được thừa hưởng các kỹ thuật cao cấp ở những dòng loa Dynaudio “đàn anh”
Chúng tôi không muốn tiết lộ các bí mật của công ty nhưng có thể cho một ví dụ về kỹ thuật DDC (Dynaudio Directivity Control) được sử dụng trong các dòng cao cấp Evidence và Confidence. Kỹ thuật này được ứng dụng cho Excite cho phép kiểm soát âm cao và hướng âm thanh trực tiếp đến người nghe tốt hơn , tránh các phản hồi âm thanh từ sàn, điều rất thường gặp ở các thiết kế loa tầm thấp. Có thể nói model này được kế thừa từ các tính chất tinh tế của nhiều năm kinh nghiệm trong việc nghiên cứu sản xuất loa của chúng tôi.
Ông đã thiết kế các loa lớn hơn so với Exite 34. Vậy những thách thức và khó khăn trong việc thiết kế một loa nhỏ hơn?
Khi ngân sách bị giới hạn, việc quan trọng là phải phân bố hợp lý sao cho sản phẩm đạt được chất lượng tốt nhất trong khuôn khổ chi phí, trong khi các thiết kế thiên về chất lượng thì chi phí được xem như không có giới hạn. Có thể nói rằng chúng tôi đã áp dụng tất cả những gì có thể từ nhiều công nghệ sử dụng trong các mẫu loa đầu bảng vào trong dòng New Excite nhưng với mức tối ưu hóa thấp nhất về chi phí.
Sự hòa hợp về mặt công nghệ theo chiều dọc của các dòng sản phẩm cùng với khả năng tự sản xuất các driver là những lợi thế rất lớn của chúng tôi, và một điều rất hay là chúng tôi cũng được thừa hưởng nhiều từ những thiết kế loa đặc biệt mà chi phí sản xuất là điều không cần phải quan tâm.
Các nhóm loa tại từng mức giá trong suốt mười năm qua có những sự thay đổi gì, và ông nghĩ sao về sự thay đổi đó ?
Mười năm trước đây việc sản xuất một đôi loa có chất lượng tốt với mức giá thấp như hiện nay là điều không thể. Tại Dynaudio, với quy trình sản xuất hợp lý nên để tạo ra dòng NewExcite với chất lượng âm thanh như vậy, sẽ tốn chi phí gấp 2 đến 2,5 lần những gì chúng tôi có thể đưa đến thị trường ngày hôm nay. Chúng tôi sẽ chỉ đưa ra mẫu sản phẩm mới khi nó có thể gia tăng đáng kể về chất lượng cho khách hàng. Chúng tôi tin rằng loa của Dynaudio tốt hơn bao giờ hết và có khả năng tương thích dễ dàng với các ampli, dây loa, vị trí sắp đặt và dễ set-up để đạt mức độ tối ưu hóa tốt nhất.
ALBERT VON SCHWEIKERT – VON SCHWEIKERT AUDIO
Vào năm 1976, trong một dự án thiết kế sinh viên tại Viện công nghệ California, Albert Von Schweikert đã thiết kế một hệ thống loa có khả năng thể hiện được không gian ba chiều của một dàn nhạc giao hưởng lớn. Loa Vortex Screen (sau này có tên là VR-4) có đặc tính tái hiện một âm thanh nổi hình vòng cung thay vì kiểu âm thanh ngang điển hình. Kiểu thể hiện này có thể dễ dàng tạo cho người nghe tin rằng ban nhạc sống đang chơi hơn là kiểu âm thanh dàn hàng ngang. Von Schweikert đã học nhạc từ năm 7 tuổi, chơi piano và guita hầu như mỗi ngày, ông cũng đã khá quen thuộc với những hạn chế của các loa thông thường.
Năm 1980, Von Schweikert được thuê cải tạo lại hệ thống phòng thí nghiệm quản lý chất lượng của ESS và sau đó ông đã thành trợ lý của tiến sĩ Oskar Heil (nhà phát minh công nghệ loa mành ribbon Air Motion Transformer). Từ năm 1987 đến năm 1989, Von Schweikert làm việc tại KSC Industries và đã thiết kế hơn một 100 dự án cho các công ty như JBL, Klipsch, Infinity, NHT, Jensen… Von Schweikert đã thiết kế hệ thống âm thanh chiếu phim theo chuẩn THX cho Counterpoint Electronics, đây cũng là dự án phòng phim được giải thưởng sản phẩm của năm do tạp chí Video Magazine bình chọn năm 1995. Năm 1996 gia đình Von Schweikert đã thành lập Von Schweikert Audio với khoản vay hỗ trợ nhỏ của SBA và sau này ông đã biến nó trở thành một công ty có giá trị hàng triệu đô la. Trong hàng chục năm qua, Von Schweikert đã được bình chọn 7 lần cho sản phẩm của năm của nhiều tạp chí âm thanh quốc tế và có đến 103 lượt đánh giá.
Những yếu tố âm thanh nào ông mong muốn có được khi thiết kế Unifield Two Mk2?
Mục tiêu thiết kế âm thanh của tôi là trung lập, có độ biến dạng thấp với khả năng thể hiện dải âm rộng, tái tạo một sân khấu với cảm giác như nghe nhạc sống. Việc sử dụng một thiết kế 3 đường tiếng để tái tạo âm trầm sâu cho một cặp bookself là khá bất thường. Loa trầm bằng nhôm với kích thước 7 inch chỉ đảm nhiệm phát từ 32hz đến 80hz do đó trung âm không bị ảnh hưởng bởi một một điểm cắt trong phân tần như các thiết kế điển hình khác. Việc chỉ sử dụng một củ loa duy nhất dành cho trung âm sẽ giúp tái tạo tốt nhất độ trung thực của âm thanh.
Tôi tránh các thiết kế có điểm ngọt bị hạn chế. Sử dụng driver treble và mid đồng trục cho phép tạo ra một hình ảnh âm thanh rất lớn và ổn định. Bạn có thể nghe được một dải tần số rộng và cân bằng ngay cả khi bạn không ngồi ngay trục điểm ngọt hoặc vị trí tầm gần. Loa Unifield Two Mk2 có độ nhạy rất cao với sự biến dạng thấp và gần như không có màu sắc trong chất âm. Bên cạnh đó, nó còn có khả năng tái tạo âm thanh rất năng động như một loa cột gần như ở mọi khía cạnh. Gần 20 hãng ghi âm bao gồm cả MTV đã sử dụng loa này như một loa kiểm âm để đáp ứng các yêu cầu khắt khe của việc sản xuất âm nhạc. Tuy nhiên, 98% người mua lại là các audiophile nên chúng tôi không coi mình là một nhà cung cấp các loa dành cho phòng thu.
Những yếu tố kỹ thuật đặc biệt nào được ứng dụng trong Unifield Two Mk2, và các công nghệ đó có phải là sự kế thừa từ các dòng cao cấp hơn không thưa ông?
Hầu hết các audiophile bây giờ đều nhận thức được ra rằng âm thanh từ cộng hưởng thùng và các củ loa làm cho chất âm mất đi độ trung thực. Phòng R&D của chúng tôi trong suốt 10 năm qua đã tập trung vào việc giảm, loại bỏ các biến dạng và cộng hưởng trong tất cả các thành phần của loa, bao gồm cả dây và phân tần trong loa. Chúng tôi tập trung vào việc mở rộng hơn nữa bề rộng và chiều sâu của âm trường, để loa nhỏ của chúng tôi sẽ được âm thanh như các loa lớn hoặc đúng hơn là cảm nhận sẽ như là đang được nghe một buổi trình diễn âm nhạc trực tiếp. Khả năng tái hiện 3D của sân khấu âm thanh là một chỉ số quan trọng trong việc đánh giá chất lượng của một hệ thống.
Để loại bỏ cộng hưởng trong thiết kế thùng loa hình hộp, tôi sử dụng một vật liệu mới cho vách thùng loa, được gọi là thống giảm nhiễu âm 3 lớp “Triple-Wall Noise Reduction System” với độ dày lên đến 3 inch. Vách loa có 3 lớp trong đó 2 vật liệu với chỉ số cộng hưởng Q cao, thấp khác nhau và một lớp vật liệu có khả năng co giãn được thiết kế độc quyền ép ở giữa theo kiểu bánh kẹp. Sự cộng hưởng của vật liệu tại các vị trí tần số đối xứng thường hay xuất hiện khi loa trầm hoạt động, đơn giản vật liệu này sẽ loại bỏ các cộng hưởng đó. Các khách hàng của tôi có thể nhận được âm thanh sạch sẽ, không có sự cộng hưởng sai lệch thậm chí so với các thiết kế thùng loa cao cấp bằng vật liệu carbon hoặc nhôm với mức giá chỉ bằng 1/4.
Loa được thiết kế tốt đang trở nên càng ngày càng trung thực hơn, những biến dạng thường thấy sẽ được hấp thụ ngay bên trong thùng loa và mạch phân tần.
Unifield Two Mk2 sử dụng củ loa đồng trục 7 inch làm từ chất liệu TPX cho dải trung và cao, với chất lượng âm thanh trung thực, không màu sắc và độ biến dạng, méo gần như không thể đo lường được. Mặc dù thiết kế loa đồng trục đã xuất hiện từ hơn nửa thế kỷ nhưng không nhiều các công ty phát triển chúng. Tuy nhiên, với thiết mới về loa đồng trục, chúng tôi đã đạt được các hiệu năng của những loa lớn và đắt tiền hơn trong việc đồng pha, liền lạc trong dải âm thanh và phát tán rộng với độ chính xác ngay cả khi người nghe ở ngoài trục giữa loa.
Để tăng cường khả năng thể hiện của dải trầm, chúng tôi đã sử dụng công nghệ Quasi-Transmission Line. Đây là công nghệ hybrid độc đáo kết hợp khả năng tốt nhất của 2 loại thiết kế thùng kín và thùng hở. Loa có thể đạt được tốc độ nhanh chóng và chặt chẽ của thùng kín nhưng đồng thời có được sức mạnh và chiều sâu của thiết kế thùng hở. Phân tần sử dụng công nghệ Global Axis Integration Network của chúng tôi cho phép Unifield Two Mk2 có âm thanh giống như một loa toàn dải hơn là một loa nhiều đường tiếng.
Ông đã từng thiết kế những loa cao cấp và lớn hơn nhiều so với UniField Two Mk2. Vậy những thách thức và đánh đổi đối với một loa nhỏ hơn tại mức giá thấp hơn là gì?
Vấn đề khó khăn nhất là khả năng đạt được âm trầm sâu, độ nhạy loa tốt và có mức độ biến dạng thấp trong khi sử dụng củ loa và thùng loa kích thước nhỏ. Chúng tôi giải quyết điều này bằng cách thiết kế một củ loa có hành trình di chuyển màng dài, hấp thụ được vài trăm watt điện năng mà không bị bóp méo hoặc quá sức. Có khả năng tạo ra một âm trường lớn dễ dàng hơn. Các củ loa đồng trục kết hợp với thiết kế phân tần đặc biệt của chúng tôi cho ra được một đáp ứng tần số phẳng và có khả năng phân tán rất rộng. Và cần lưu ý rằng, chỉ tính riêng thùng loa, UniFiled Two Mk2 đã nặng trên 25kg.
Các nhóm loa tại từng mức giá trong suốt mười năm qua có những sự thay đổi gì, và ông nghĩ sao về sự thay đổi đó ?
Loa được thiết kế tốt đang trở nên càng ngày càng trung thực hơn, những biến dạng thường thấy sẽ được hấp thụ ngay bên trong thùng loa và mạch phân tần. Có một số công ty trong đó bao cả chúng tôi đang cố gắng vượt khỏi các giới hạn. Với Von Schweikerts, chúng tôi cung cấp chất lượng của những dòng loa cao cấp nhưng không tăng giá bán lẻ một cách vô lý. Chúng tôi muốn khách hàng chúng tôi mua được thiết bị có khả năng trình diễn âm thanh tốt nhất trong tầm ngân sách của họ.
The Absolute Sound