HFVN – Một trong những khó khăn lớn nhất của nghe thẩm định là tìm ra ngôn từ phù hợp để mô tả những cảm nhận và trải nghiệm trong quá trình nghe. Vốn từ mô tả những phẩm chất âm thanh không chỉ cần thiết trong việc truyền đạt lại những gì nghe được cho người khác mà còn giúp người chơi tự ghi nhận và thấu hiểu với những trải nghiệm của bản thân. Bài viết này đề cập đến những khái niệm và vốn từ vựng dùng để mô tả phẩm chất âm thanh của thiết bị audio.

0000hinh001

Trước khi mô tả từng khái niệm cụ thể, chúng tôi muốn độc giả nắm được hệ thống thuật ngữ dùng để mô tả dải tần âm thanh. Dải tần số âm thanh mà tai người nghe thấy trải dài trên 10 quãng tám bắt đầu từ 16Hz đến 20kHz, có thể chia thành một số vùng cụ thể theo bảng dưới đây.

SỰ CÂN BẰNG VỀ GIỌNG (TONAL BALANCE)

Khía cạnh đầu tiên trong màn trình diễn âm nhạc của mỗi thiết bị mà người nghe cầu lưu tâm là sự cân bằng về chất giọng , sự hài hòa cân bằng giữa âm bass, mid hay treble của thiết bị đạt đến mức nào. Nếu âm thanh có xu hướng nhiều trele, có thể gọi là thiết bị thiên sáng. Nếu âm bass lấn át các dải khác, thiết bị đó được coi như có chất tiếng nặng. Ngược lại, nếu có quá ít âm bass, có thể coi thiết bị đó mỏng tiếng, nhẹ bass hoặc thiên cao. Sự cân bằng về giọng của thiết bị audio đặc biệt có ý nghĩa, thường ảnh hưởng lớn đến âm điệu của nó.

ÂM HÌNH (OVERALL PERSPECTIVE)

Thuật ngữ âm hình mô tả khoảng cách hiện hữu giữa người nghe và âm nhạc. Âm hình chủ yếu thể hiện khoảng cách giữa người trình diễn với microphone. Tuy nhiên, nó cũng chịu ảnh hưởng của các thiết bị tái tạo trong hệ thống. Một số thiết bị khiến màn trình diễn như vậy được đẩy lên phía trước, hướng đến người nghe. Trong khi đó, một số thiết bị khác lại có xu hướng kéo lùi sân khấu lại phía sau. Thiết bị có âm hình tiến thể hiện âm nhạc ở phía trước cặp loa, sản phẩm có âm hình lùi thể hiện âm nhạc hơi lùi về phía sau loa.

Một số thuật ngữ khác cũng được sử dụng để mô tả âm hình. Ví như từ khô (dry) thường dùng để mô tả âm thanh thiếu độ vang và không gian, nhưng cũng có thể hiểu được nếu ám chỉ âm hình hơi tiến. Một số cụm từ khác có thể dùng để mô tả âm hình tiến như: trực tiếp (immediate), sắc tiếng (incisive), tấn công (aggressive), chói lọi (vivid)… Những thuật ngữ đi kèm với âm hình lùi thường được dùng như: dịu (easygoing), nhẹ nhàng (gentle)…

0000hinh002

TIẾNG TREBLE

Tiếng treble hay là yếu tố không thể thiếu trong hệ thống tái tạo âm nhạc chất lượng cao. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều sản phẩm audio xuất sắc lại không thể thỏa mãn yêu cầu về nhạc tính bởi sự yếu kém trong phần trình diễn tiếng trele.

Những đặc tính của tiếng treble mà người chơi audio muốn tránh được thể bhiện qua những thuật ngữ như: sáng (tươi), rối, tiến, tấn công, cứng giòn, sắc, khô, nhợt, chuột, chói, đanh, rít, sạn…

Thiết bị audio có tiếng treble với những đặc điểm trên thường khiến người nghe cảm thấy không thoải mái trong quá trình nghe nhạc. Khi đó, người nghe có cảm giác như tiếng trle không hòa nhập với màn hòa âm tổng thể của bản nhạc, mà tách rời “một mình một điệu”. Trong trường hợp này, người nghe sẽ nhận biết tiếng treble như một thực thể riêng biệt mà không còn là yếu tố cấu thành nên âm nhạc. Một số nguyên nhân chính gây ra vấn đề trên như: chất lượng của loa tweeter (loa treble) trong cặp loa, phòng nghe bị dội âm (cao) quá nhiều, các thiết bị nguồn digital (thường là đầu đọc CD), pre-ampli, ampli công suất, dây dẫn và nguồn điện bẩn, nhiễu.

Nhũng thuật ngữ được liệt kê sau đây thường dùng để mô tả tiếng trele hay như: mượt, ngọt, êm, mịn, nhẹ, dịu… Khi tiếng trele trở nên quá mượt, người ta thường sử dụng từ ướt át hay ủy mị để chỉ âm thanh của thiết bị. Có thể hiểu, những thuật ngữ như “mượt, ngọt và mịn” được sử dụng như sự khen tặng. Ngược lại, “ướt át, ủy mị” cho ta thấy tiếng treble đã vượt quá giới hạn cân bằng và thiết bị đã trở nên sai âm.

Những thiết bị có chất tiếng nhạt, đơn điệu, chậm, dày, hẹp và thiếu chi tiết thường có tiếng treble vượt quá mức mượt mà cần thiết. Một số thiết bị khác lại khiến màn trình diễn âm nhạc thiếu sức sống, khôg gian, độ mở, sự dàn trải nếu tiếng treble quá mềm. khi đó, âm nhạc chỉ được tái tạo trong phạm vi hẹp, thiếu độ mở và độ lớn.

Không gian của quãng tám cao nhất thể hiện sự (gần như) không có giới hạn trong độ mở của tiếng treble, khiến người nghe như thấy được lớp không khí bao xung quanh mỗi âm thanh nghe thấy từ nhạc cụ và giọng hát. Những hệ thống không tái tạo được quãng tám cao nhất thường không thể hiện được độ chi tiết của không gian âm nhạc.

Tiếng treble hay nhất giống với âm nhạc thực nhất. Để đạt tới điều này, tiếng treble phải giàu năng lượng. Vì như tiếng cymbal thật nghe rất mãnh mẽ mà không sạn hay bị khô. Âm thanh tái tạo chỉ được gọi là thành công khi loại bỏ những âm thanh mà trong nhạc sống không có. Hơn thế, tiếng treble phải là yếu tố cấu thành và hài hòa với tổng thể âm nhạc chứ không phải là thứ tiếng ồn ở dải tần cao khiến người nghe khó chịu.

Nghe Nhìn Việt Nam